Tiêu chí quan trọng để chọn cổ phiếu ngân hàng là gì ?

1. Tại sao sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng không quá gay gắt.
Không giống như những ngành nghề khác, sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng không quá gay gắt. Từ những ngân hàng lớn, đến ngân hàng bé đều có thể tăng trưởng đều đặn, ổn định, và đều có thể đồng loạt báo lãi lớn. Gần như trong ngành ngân hàng không gặp tình trạng cá lớn nuốt cá bé, hay là một doanh nghiệp tăng trưởng thì doanh nghiệp còn lại sẽ suy thoái.

Nguyên nhân dẫn đến việc các ngân hàng tốt hoặc các ngân hàng quy mô nhỏ với khả năng quản trị rủi ro kém hơn đều có thể tăng trưởng liên tục qua từng năm là do quy định về cấp room tín dụng của ngân hàng nhà nước. Đối với mỗi ngân hàng thương mại, sau khi được ngân hàng nhà nước đánh giá thì sẽ được cấp một mức room tăng trưởng tín dụng phù hợp. Việc cấp room tín dụng cụ thể cho từng ngân hàng đã giúp cho sự cạnh tranh của ngành ngân hàng không gay gắt như những ngành nghề khác.

2. Sự ra đời của room tín dụng.
Trước khi quy định về việc cấp room tín dụng ra đời thì tăng tăng tín dụng của Việt Nam ở mức rất cao và không có sự ổn định.

Do tín dụng tăng trưởng quá nóng, từ đó dẫn đến cung tiền trong nền kinh tế tăng mạnh, điều này đã khiến cho lạm phát Việt Nam tăng cao. Điển hình như năm 2008, lạm phát tại nước ta lên đến 22.97%.

Việc tăng trưởng tín dụng quá nhanh dẫn đến chất lượng của các khoản cho vay không được kiểm soát chặt chẽ, điều này đã khiến cho nợ xấu tại các ngân hàng tăng cao. Tại ngày 31/05/2012, theo báo cáo của tổ chức tín dụng thì nợ xấu toàn hệ thống là 4.47%, nhưng theo số liệu của cơ quan giám sát ngân hàng thì tỷ lệ nợ xấu lên đến 8.6%. Cá biệt, theo số liệu của Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam tại thời điểm đó đã lên đến 13%.

Để kiểm soát vấn đề tín dụng chắt chẽ hơn thì đến 2011, ngân hàng nhà nước chính thức áp dụng room tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Điều này đã khiến cho tốc độ tăng trưởng tín dụng từ sau 2011 của Việt Nam ở mức ổn định trung bình khoảng 15%, và lạm phát khi này cũng được được kiểm soát ở mức hợp lý.

Mỗi ngân hàng đều sẽ được cấp một mức room tín dụng riêng, nếu có hoạt động kinh doanh và quản trị hiệu quả hơn thì cũng không được nới thêm quá nhiều. Trong khi đó, nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế đang rất lớn, do đó nếu không vay được tại những ngân hàng có dịch vụ tốt nhất thì khách hàng sẽ phải chuyển sang vay tại những ngân hàng khác. Điều này khiến cho đa số các ngân hàng đều có hoạt động kinh doanh tốt, ngân hàng lớn thì lãi nhiều, ngân hàng nhỏ thì cũng không bao giờ lo thua lỗ nếu kiểm soát được nợ xấu ở mức hợp lý.

3. Bỏ quản lý theo room tín dụng để quản lý theo Basel III.
Trong tương lai, room tín dụng chỉ còn mang tính chất hình thức, bởi ngân hàng nhà nước đang nghiên cứu lộ trình bỏ room tín dụng, điều này sẽ khiến ngành ngân hàng trở nên cạnh tranh gay gắt hơn. Các ngân hàng lớn, nguồn vốn dồi dào, dịch vụ tốt, … sẽ dần cướp định miếng bánh thị phần của các ngân hàng nhỏ không có lợi thế cạnh tranh.

Trong tương lai, xu hướng của Việt Nam cũng tương tự như các quốc gia trên thế giới, đó là thay vì quản lý bằng room tín dụng thì sẽ quản lý bằng chất lượng của ngân hàng. Gần đây, khi mà đa số các ngân hàng tại Việt Nam đã đáp ứng được chuẩn mực Basel II thì trong tương lai sẽ hướng tới chuẩn mực Basel III. Một trong những yếu tố quan trọng nhất của Basel III đó là tỷ lệ an toàn vốn.

Tại cuối 2023, tỷ lệ an toàn vốn của MBB là 10.75%, cao hơn tỷ lệ tổng vốn tối thiểu cộng với bộ đệm dự phòng theo chuẩn mực của Basel III.

Mặc dù có quy mô không qua lớn, nhưng tỷ lệ an toàn vốn của TPB cuối 2023 ở mức tương đối cao khoảng 12.42%.

Tỷ lệ an toàn vốn của ACB tại cuối 2023 là 12.48%

Tỷ lệ an toàn vốn của TCB tại cuối 2023 đạt 14.35%.

Một số ngân hàng khác thức thời hơn như VPB thì đã bán vốn cổ phần để tăng tỷ lệ an toàn vốn. Trong Q4/2023, VPB bán 15% cổ phần và thu về 35.897 tỷ.

Tỷ lệ an toàn vốn của VPB tăng mạnh sau khi tăng vốn đạt mức 17.07%, cao nhất trong hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam. Do đó, trong tương lai VPB được kỳ vọng sẽ có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, bởi sau khi bỏ room thì dụng thì các ngân hàng sẽ cạnh tranh nhau bằng chất lượng dịch vụ, tỷ lệ an toàn vốn, …

Học hỏi từ VPB, hai ngân hàng lớn khác là TCB và MBB cũng đang tìm kiếm đối tác để bán vốn, điều này giúp nguồn vốn của ngân hàng dồi dào hơn, từ đó kéo theo tỷ lệ an toàn vốn cũng ở một mức cao hơn.

Tính đến cuối 2023, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của ngành ngân hàng Việt Nam đạt 11.7%, thấp hơn rất nhiều khi so với tỷ lệ an toàn vốn trung bình của ngành ngân hàng tại các quốc gia trên thế giới. Dó đó, trong thời gian tới khả năng cao các ngân hàng tại Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn chạy đua tăng vốn.

Tại các quốc gia đã phát triển hay đang phát triển, nguồn thu chính của các ngân hàng vẫn đến từ hoạt động cho vay. Đối với những ngân hàng nào có tỷ lệ an toàn vốn cao thì NĐT hoàn toàn có quyền kỳ vọng rằng tốc độ tăng trưởng cho vay trong tương lai của những ngân hàng này sẽ cao hơn so với trung bình ngành, từ đó chiếm được thị phần của các ngân hàng yếu kém khác. Đối với cổ phiếu MBB, mặc dù tốc độ tăng trưởng của ngân hàng này chỉ là 15 – 20%/năm, nhưng nếu nhìn cả một quá trình nhiều năm thì có rất ít lĩnh vực có thể duy trì được mức độ tăng tăng kép như một số cổ phiếu trong ngành ngân hàng. Tính đến cuối Q3/2024, tổng cho vay của MBB là 702 nghìn tỷ, gấp gần 5 lần so với năm 2016.

Giá cổ phiếu MBB cũng phản ánh tương tự với tốc độ tăng trưởng của ngân hàng này. Từ 2016 – 2024, cổ phiếu MBB tăng 500%. Đối với các cổ phiếu ngân hàng chất lượng thì xét về dài hạn vẫn sẽ tiếp tục trong xu hướng tăng.

Mặc dù nền kinh tế Mỹ tăng trưởng tương đối chậm, nhưng xu hướng dài hạn của giá cổ phiếu ngân hàng lớn thứ 3 nước Mỹ là Wells Fargo vẫn là xu hướng tăng.

Link video phân tích chi tiết:
Nội dung được phân tích bởi đội ngũ ALIAS (vui lòng copy nhớ ghi nguồn):
MR TRỊNH THẾ HOÀN – Giám đốc TVĐT VPS.
MR TRẦN QUANG CHUNG – Trưởng phòng phân tích.
Zalo: 0366.282.656 hoặc 0345.666.656
Tham gia nhóm tư vấn của đội ngũ ALIAS: https://alias.vn/tham-gia-nhom-tu-van-cua-doi-ngu-alias/